Showing posts with label phật phát. Show all posts
Showing posts with label phật phát. Show all posts

Khi lâm chung tưởng nhớ Phật, nhưng không thấy Phật rước có được vãng sanh hay không?

Hỏi: Kính bạch thầy, con được phước duyên tu theo pháp môn Tịnh độ gần 2 năm. Con thấy rất là an lạc mỗi khi con niệm Phật. Và con cố gắng gìn giữ chánh niệm trong tâm. Xin hỏi một may khi cơn vô thường đến, lúc đó con vẫn nhớ niệm Phật, mà không thấy Phật Di Ðà hiện đến tiếp dẫn con, như vậy, con có được vãng sanh hay không? Kính xin thầy hoan hỷ giải đáp cho con được yên tâm. Thành kính cám ơn thầy.



Ðáp: Qua sự trình bày của Phật tử, thật chúng tôi rất tùy hỷ tán thán vui mừng. Thời gian tu hành niệm Phật của Phật tử, tuy mới trải qua thời gian hai năm thôi, nhưng kết quả rất có tiến bộ khả quan. Niệm Phật mà tâm được an lạc, thì đó là điều rất tốt. Tuy nhiên, Phật tử cũng nên cẩn thận, vì tập khí phiền não của con người sâu dầy lắm. Trong kinh Phật dạy, khi nào chứng quả A la hán, thì mình mới nên thật sự tin ở nơi tâm mình. Vì quả vị A la hán là đã dứt trừ hết “Kiến Tư” hoặc phiền não. Hễ trong tâm còn phiền não, dù là rất vi tế, nó cũng làm cho tâm mình dao động bất an. Nói chi đến những phiền não thô trọng khác.

Khi niệm Phật mà tâm mình được an định, thời gian lâu hay mau, điều nầy, còn tùy thuộc vào sự huân tu già dặn miên mật hay không già dặn miên mật của mỗi người. Nhưng chúng ta nói là an định, nhưng kỳ thật, theo tôi, thì lúc đó chỉ không có những vọng niệm phiền não thô phù thôi. Chớ những vọng niệm phiền não vi tế làm sao sạch hết được. Nếu sạch hết là thành Thánh nhân rồi.

Việc gìn giữ chánh niệm, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Bởi vì chánh niệm có nghĩa là chỉ nhớ hay biết những gì đang xảy ra ngay trong giây phút hiện tại. Tâm ta không vọng tưởng nghĩ nhớ hai đầu. Không nhớ những việc đã qua và những việc sắp đến. Ðược thế, mới đúng với nghĩa chánh niệm. Khi niệm Phật, ta chỉ chú tâm vào câu hiệu Phật, tuyệt đối, không có một tạp niệm nào xen vào. Ðược thế, mới tạm gọi là tương ưng phần nào với chánh niệm.

Theo nghĩa đó, là người chí thiết tu hành, chúng ta không phải chỉ gìn giữ chánh niệm trong lúc niệm Phật không thôi, mà còn phải gìn giữ chánh niệm suốt trong mọi thời gian và nơi chốn. Có gìn giữ như thế, thì tâm mình mới không bị tán loạn thất niệm. Việc nầy, thật là rất khó làm. Nếu dễ, thì chắc chúng ta sẽ thành Phật tác Tổ hết rồi. Tuy nhiên, giây phút nào tâm ta được chánh niệm, thì giây phút đó là ta có được an lạc hạnh phúc ngay. Ngược lại, là ta bị đau khổ. Ta đau khổ bất an vì tâm loạn động thất niệm. Ðó là chúng tôi xin được góp thêm chút ý kiến về việc giữ gìn chánh niệm, như Phật tử đã nói.

Còn việc Phật tử hỏi, khi cơn vô thường bất thần xảy đến, nói rõ hơn là trong giờ phút hấp hối sắp lâm chung, Phật tử nhớ đến đức Phật A Di Ðà, nhưng không thấy Ngài hiện thân đến tiếp dẫn, như vậy, Phật tử đâm ra nghi ngờ không biết mình có được vãng sanh hay không? Xin thưa ngay là Phật tử hãy yên tâm. Ðức Phật A Di Ðà không bao giờ bỏ rơi hay phụ lòng Phật tử đâu. Giả dụ như Phật tử dù không thấy Ngài đến tiếp dẫn, thì Phật tử cũng vẫn được vãng sanh. Vì lúc đó Phật tử đã nhớ đến Phật. Phật ngoài tuy không đến rước Phật tử, nhưng ông Phật tâm của Phật tử đã cứu thoát Phật tử rồi. Ðó chỉ là nói giả dụ thôi, chớ làm gì có thật như thế mà Phật tử phải lo sợ. Chỉ lo sợ là liệu lúc đó Phật tử có được thân an niệm chánh tha thiết nhớ đến Phật hay không mà thôi.

Phật tử nên nhớ rằng, với 48 điều đại nguyện của đức Phật A Di Ðà, không có nguyện nào mà Ngài không nghĩ đến việc tiếp dẫn chúng sanh về cõi nước của Ngài. Nhưng với điều kiện là, chúng sanh đó phải hết lòng xưng niệm danh hiệu Ngài. Ngoài ra, hằng ngày còn phải tu tạo nhiều điều phước thiện khác. Với một bản nguyện chí tình chí thiết như thế, thì thử hỏi làm sao đức Phật A Di Ðà có thể bỏ rơi Phật tử cho được? Chỉ ngại và lo sợ rằng, lúc sắp lâm chung khi thân thể bị đau nhức hoành hành, lúc đó, liệu Phật tử có còn vững tâm nhớ đến Ngài một cách tha thiết hay không? Hay là Phật tử chỉ nhớ đến cơn đau nhức cùng những người thân thuộc và tài sản. Ðó mới là điều quan trọng đáng nói.

Tuy nhiên, với công phu hành trì niệm Phật hiện tại của Phật tử, như Phật tử đã nói, thì tôi nghĩ rằng, giờ phút lâm chung của Phật tử chắc chắn là sẽ được đức Từ Phụ A Di Ðà tiếp dẫn Phật tử vãng sanh. Bởi vì niệm Phật như mẹ con nhớ nhau. Con đã chí tình tha thiết nhớ đến mẹ, thì mẹ lại nỡ lòng nào mà không thương tưởng nhớ đến con! Ðiều quan trọng, là Phật tử phải cố gắng tinh tấn chuyên tâm niệm Phật nhiều hơn nữa. Có đôi khi, lúc bình thường không có việc gì xảy ra cho thân tâm, thì Phật tử niệm Phật thấy an lạc. Nhưng bất chợt có việc gì quan trọng xảy đến, bấy giờ, liệu Phật tử có còn giữ được chánh niệm an lạc nữa hay không? Nghĩa là lúc đó Phật tử có yên tâm mà nhớ đến Phật như lúc bình thường hay không? Sự tu hành không ai biết rõ hơn bằng mình tự biết lấy mình. Vì mình chưa làm chủ được bản tâm mình. Tâm vọng tưởng của mình nó theo duyên trần khởi lên mạnh lắm. Phật tử nên cẩn trọng dè dặt, chớ thấy nó tạm thời lắng dịu an lạc trong giây phút niệm Phật mà cho mình đã được chánh niệm. Hãy thận trọng quán chiếu sâu vào nội tâm cho thật kỹ càng. Không nên vội mừng cho mình đã được như thế.

Kính cầu nguyện Phật lực gia hộ cho Phật tử mạnh khỏe vững tâm tu hành và niệm Phật chóng được thành tựu viên mãn theo sở nguyện.

Thờ người chết như cha mẹ hay ông bà nhiều nơi có được không?

Hỏi: Kính bạch thầy, những người thân như cha mẹ, ông bà đã qua đời, mình có thể thờ cúng nhiều nơi được không? Chẳng hạn trong gia đình có nhiều con cái anh em đều muốn thờ, như vậy có trái phép tắc luật nghi hay không?



Ðáp: Việc thờ phụng tổ tiên, ông bà, cha mẹ, theo phong tục xưa, thì người ta chỉ thờ phụng một nơi. Nơi đó gọi là từ đường. Nghĩa là ngôi nhà thờ chung. Ðến ngày kỵ giỗ, thì tất cả con cháu và những thân quyến trong đại gia đình, đều tập trung về nơi trú xứ đó mà thiết lễ cúng giỗ. Theo lệ cúng giỗ ngày xưa cũng rất là rườm rà phức tạp. Tuy nhiên, chỉ có những gia đình nào khá giả giàu có, thì người ta mới làm đủ lễ. Còn những gia đình nghèo khó không đủ khả năng, thì người ta cũng chỉ thiết cúng đơn sơ mà thôi.

Như đã nói, việc thờ cúng với mục đích là để kỷ niệm người mất như lúc còn sống. Theo quan niệm xưa, ông bà cha mẹ tuy đã qua đời, nhưng linh hồn của những người đã mất vẫn tồn tại và luôn ở bên cạnh con cháu để mà phù hộ độ trì cho con cháu và những người thân thuộc trong gia đình luôn được bình an khỏe mạnh. Gia hộ cho mọi người làm ăn phát tài thạnh vượng. Do đó, nên việc tưởng niệm thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ, trở thành một tục lệ rất quan trọng đối với người Việt mình.

Ngày nay, thì có khác. Tuy người Việt mình cũng vẫn duy trì phong tục thờ cúng theo lệ cổ truyền đó. Nhưng vì hoàn cảnh xã hội, nhất là hoàn cảnh sinh sống hiện nay của mỗi người mỗi khác. Vì nhu cầu sự sống, hoặc vì một hoàn cảnh đặc biệt nào đó mà người Việt mình phải sinh sống rải rác mỗi nơi cách xa nhau. Kẻ ở nước nầy, người nước nọ. Những gia đình có con cháu đông, thì họ sinh sống rải rác nhiều nơi trên thế giới. Vì đường xá xa xôi cách trở, nên việc họp mặt với nhau trong ngày kỵ giỗ thì thật là bất tiện. Do đó, nên người ta phải linh động uyển chuyển mà thờ cúng ông bà cha mẹ ở mỗi nơi khác nhau.

Ðiều quan trọng, tuy con cháu thờ cúng ở mỗi nơi khác nhau, nhưng tinh thần của mỗi người qua lời cầu nguyện hướng về người thân vẫn là hợp nhất. Như trường hợp cha mẹ chết ở Việt Nam hay ở Mỹ chẳng hạn, thì người con ở Úc cũng có thể thiết lập bàn thờ để thờ cúng cha mẹ hoặc ông bà của mình. Ðiều nầy, theo tôi, thì không có gì là sai trái cả. Vì hoàn cảnh bất như ý, kỳ thật trong thâm tâm không ai muốn như thế. Vả lại, đây chỉ là hình thức tưởng niệm, kỳ thật đâu có ông bà cha mẹ nào chờ đợi cho con cháu cúng mình. Thử hỏi một năm 365 ngày mà con cháu chỉ cúng cho ông bà cha mẹ ăn có một lần, còn lại 364 ngày khác, thì cha mẹ, ông bà phải chịu chết đói chết khát hết hay sao? Hiểu thế, thì chúng ta mới thấy tục lệ thờ cúng tổ tiên ông bà cha mẹ của chúng ta, là nhằm nói lên tinh thần tri ân và báo ân, hướng về cội nguồn, theo một nền văn hóa hiếu đạo thật sâu sắc tuyệt vời của người Việt Nam. Ðây mới chính là bản sắc văn hóa cổ truyền có gốc rễ vững chắc cấm sâu vào lòng dân tộc từ ngàn xưa và mãi đến ngàn sau vậy.

Cúng dường trai tăng cho người đã mất như thế nào mới hợp lý?

Hỏi: Kính thưa thầy, xin thầy giảng cho con hiểu về cách thức của việc cúng dường trai tăng. Khi người thân qua đời ở đâu, thì mình chỉ cúng dường trai tăng ở nơi đó, hay là có thể cúng ở nơi khác có được không? Thí dụ người thân mất ở Mỹ, con có thể cúng dường trai tăng ở Việt Nam có được không? Kính xin thầy từ bi giải đáp cho con rõ. Kính cám ơn thầy.



Ðáp: Việc cúng dường trai tăng, đây là người Phật tử noi theo tấm gương chí hiếu của tôn giả Ðại Hiếu Mục Kiền Liên khi xưa. Vì chính Tôn giả là người đứng ra tổ chức thiết lễ trai tăng cúng dường đầu tiên, để cầu siêu cho thân mẫu của Ngài. Ðó là Ngài vâng theo lời Phật dạy. Buổi đại lễ trai tăng nầy được các chùa theo hệ phái Phật giáo Bắc Tông, ( Phát triển ) thực hiện vào ngày rằm tháng bảy âm lịch hằng năm, sau khi chư tăng ni làm lễ “Tự tứ” mãn hạ. Từ đó, mới có lễ cúng dường trai tăng truyền thống nầy.

Noi theo truyền thống đó, nên người Phật tử mỗi khi trong thân quyến có người thân qua đời ( thông thường là đến 49 ngày cúng chung thất ), thì họ thường thiết lễ cúng dường trai tăng ở trong chùa, hoặc có đôi khi tổ chức tại tư gia. Ðiều nầy, còn tùy thuộc vào khả năng và hoàn cảnh của mỗi người. Nhưng phần lớn là người Phật tử thường tổ chức lễ trai tăng ở trong chùa. Vì tổ chức ở nhà có nhiều điều bất tiện hơn.

Theo lệ thường, trước ngày cúng tuần chung thất, trong tang quyến đến chùa ( thường là ngôi chùa nơi thờ linh cốt của người mất ) trình bày về việc thiết lễ cúng dường trai tăng cho vị trụ trì hoặc tăng ni của ngôi chùa đó biết, để tiện bề sắp xếp và cung thỉnh chư tôn đức tăng ni. Việc cung thỉnh chư tôn đức tăng ni tham dự chứng minh của buổi lễ nầy, nhiều hay ít, đều do thân nhân trong tang quyến quyết định.

Mục đích của buổi lễ nầy là để thân quyến có dịp bày tỏ dâng lên nỗi lòng thương kính báo hiếu tri ân đối với người đã mất. Ðồng thời cũng thành tâm dâng lên phẩm vật để cúng dường Tam bảo và hiện tiền tăng. Nhờ sức chú nguyện của chư Tôn đức tăng ni mà hương linh của người quá cố chóng được siêu sanh thoát hóa. Ðó là chúng tôi trình bày đại khái về nguyên nhân cũng như về cách thức của buổi lễ cúng dường trai tăng cho Phật tử biết sơ qua.

Trở lại câu hỏi của Phật tử. Phật tử hỏi rằng, khi người thân qua đời ở đâu, thì nên cúng dường trai tăng ở nơi đó hay có thể cúng dường ở nơi khác được không? Xin thưa, là được không có gì trở ngại. Như chúng tôi đã nói, tùy theo hoàn cảnh sinh sống của mỗi người. Chúng ta nên linh động uyển chuyển mà không sai trái với lễ nghi. Trường hợp, như cha mẹ mất ở bên Việt Nam hay ở bất cứ nơi đâu, mà Phật tử không thể về hoặc đến nơi đó được, thì Phật tử cũng có thể cúng dường trai tăng ở Úc. Không nhất thiết là phải cúng dường trai tăng nơi chỗ người mất. Tuy nhiên, có những trường hợp, mình cũng có thể cúng dường trai tăng trong lúc còn tang lễ hoặc một vài tuần thất sau đó, nếu có mặt mình trong khi dự tang lễ. Ngoài ra, thì có thể tổ chức bất cứ nơi đâu cũng đều được cả. Ðó là tùy theo hoàn cảnh sinh sống ngoài ý muốn của mình. Ðiều quan trọng là ở nơi tấm lòng thành kính của mình, khi thiết lễ dâng cúng.

Tóm lại, việc cúng dường trai tăng tùy theo hoàn cảnh sinh sống của Phật tử mà Phật tử có thể tùy nghi linh động thiết cúng bất cứ nơi đâu cũng được. Tuy nhiên, theo tôi, nơi nào có đông thân nhân tang quyến thì tốt hơn. Vì ngày đó, cũng là dịp để cho mọi người về chùa gieo thiện duyên với Tam bảo. Ðồng thời, sự sum họp có mặt đông đủ của con cháu làm cho linh hồn người mất cũng được an vui hơn.

Kính chúc Phật tử thân tâm thường lạc, tinh tấn tu hành, chóng đạt thành ý nguyện.

Câu nói: “Ðạo Phật đến đâu thì hòa bình đến đó” ý nghĩa như thế nào?

Hỏi: Kính bạch thầy, năm rồi về Việt Nam con có đi dự đại lễ Phật Ðản, thấy có một biểu ngữ: “Ðạo Phật đến đâu hòa bình đến đó”. Có người không đồng ý. Con hiểu, nhưng vì trình độ tu học của con còn rất yếu kém, nên con không dám giải thích. Con kính xin thầy hoan hỷ giải thích rõ thêm cho chúng con được hiểu.



Ðáp: Việc không đồng ý đó là quyền của họ. Có thể là vì họ chưa có dịp tìm hiểu về đạo Phật. Nếu vì chưa hiểu, thì nên tìm hiểu. Chưa tìm hiểu rõ ràng, mà vội thốt lên lời nói khẳng quyết như thế, chứng tỏ người đó quả không có chút cẩn trọng. Nếu là người đã có nghiên cứu ít nhiều về đạo Phật, thì chắc chắn không ai dám thốt lên lời nói bất cẩn vô ý thức như thế.

Câu nói nầy phải nói là một chủ đề lớn. Trong phạm vi trả lời câu hỏi, chúng tôi chỉ xin được trình bày một cách khái quát qua một vài nét đơn sơ mà thôi. Câu châm ngôn đó, tuy rất ngắn gọn, nhưng nó đã gói trọn cái tôn chỉ từ bi, vị tha, bình đẳng của đạo Phật. Ðạo Phật luôn chủ trương và kêu gọi nhơn loại hãy sống chung hòa bình. Từ ngàn xưa đến nay và có thể nói mãi mãi đến ngàn sau, đạo Phật lúc nào và ở đâu cũng đều nêu cao tôn chỉ đó. Chính vì thế, nên sự truyền bá của đạo Phật, theo dòng thời gian trải dài trong quá khứ, lịch sử nhơn loại đã chứng minh cụ thể điều đó. Ðạo Phật đi đến đâu chỉ mang lại tình yêu thương và lẽ công bằng, tạo sự hòa bình an vui hạnh phúc cho nhơn loại. Có thể nói, trong sự truyền bá đó, đạo Phật chưa bao giờ gây ra đổ một giọt máu đào nào cho nhơn loại. Ðó là điểm đặc thù trong suốt chiều dài lịch sử truyền bá của đạo Phật.

Bởi những hiện tượng xung đột gây nên thù hận chiến tranh, đó không phải là bản chất cá tánh của loài người. Mà bản chất của loài người là bất bạo động, là yêu chuộng tự do và hòa bình. Ðạo Phật cho rằng, Hòa bình hay chiến tranh không phải tìm kiếm ở bên ngoài mà có, mà nó nằm ngay trong lòng của mỗi con người. Nguồn gốc gây nên sự xung đột chiến tranh, theo Phật giáo, động lực chính là do vô minh chủ động. Mà hiện tướng của nó là “tham, sân, si”. Bao giờ nhơn loại còn nuôi dưỡng chất chứa trong lòng ba thứ hạt giống độc tố nầy, thì đừng hòng nhơn loại có thể sống chung hòa bình với nhau. Muốn có hòa bình, con người phải diệt trừ những nguyên nhân gây ra mâu thuẫn nội tại. Nói rõ hơn là phải thường xuyên nhận diện và chuyển hóa hết những thứ vô minh phiền não. Chính những thứ nầy là nguồn gốc gây ra mọi sự khổ đau và làm cho thế giới trở nên thác loạn đảo điên không cùng.

Ðiều rõ nét nhứt mà ngày nay cả nhơn loại đang gào thét trong sự phá hủy tiêu diệt trái đất, mà nguyên nhân chính cũng bởi do lòng tham lam quá độ của con người mà ra. Hằng ngày, họ cho thải ra không biết bao nhiêu lượng khí độc, tạo nên tình trạng ô nhiễm môi sinh ngày càng khốc liệt hơn. Những trận thiên tai họa hại giáng xuống khắp nơi, đó là sự cảnh cáo đe dọa của thiên nhiên. Ngoài ra, còn biết bao những tệ nạn xã hội họa hại khác. Thật nói không thể hết. Phải chăng tất cả đều do con người gây ra!

Phải thành thật mà nói, sự sống của nhơn loại ngày nay như đang đứng trên bờ vực thẳm. Không biết mình sẽ rơi xuống hố sâu vào lúc nào. Chính vì ý thức được nỗi khổ niềm đau cộng nghiệp lớn lao của nhơn loại, nên Phật giáo đã kêu gọi con người nên tìm mọi phương cách cứu thoát chính mình. Muốn cứu thoát con người ra khỏi cộng nghiệp khổ đau nầy, theo Phật giáo, chỉ có một cách duy nhứt là mỗi người nên tự quán chiếu sâu vào nội tâm để chuyển hóa những hạt giống bất thiện, chính nó là nguyên nhân nội tại làm khổ đau cho mình và người.

Ðó là con đường hóa giải những mâu thuẫn, hận thù, xung đột, tỵ hiềm, kỳ thị v.v… đã và đang tiềm ẩn sâu kín trong lòng của mỗi cá thể. Có thế, thì nhơn loại mới thực sự mở rộng tâm thức bao dung, tha thứ và biết thương yêu nhau hơn trong sự hòa hợp sống chung trong tình huynh đệ. Ðạo Phật đã và đang vận dụng tận lực mọi khả năng trong sự đóng góp bằng con đường nhập thế phát triển mọi hướng, nhằm đem lại sự yêu thương hàn gắn mọi vết thương của nhơn loại hiện nay. Ðó là con đường hóa giải tạo sự công bằng tự do nhân ái trong tinh thần từ bi, vị tha và bình đẳng của đạo Phật vậy.

Thọ giới Bồ tát nhưng không đến chùa Bố tát kiểm giới có mang tội không?

Hỏi: Kính bạch thầy, con đã thọ giới Bồ tát, nhưng thỉnh thoảng con không có đến chùa sám hối và Bố tát nghe giới, như vậy con có phạm giới không? Và có phạm tội không?



Ðáp: Xin thưa ngay là không có phạm giới và cũng không có phạm tội lỗi chi cả. Theo luật, sau khi Phật tử đã thọ giới Bồ tát, thì mỗi nửa tháng tốt nhứt, là Phật tử nên đến chùa trước là sám hối cùng với đại chúng, sau là nghe giới đã lãnh thọ. Bố tát là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là trưởng tịnh. Trưởng có nghĩa là nuôi lớn; tịnh có nghĩa là trong sạch hay an lạc. Hai chữ nầy có nghĩa là nuôi lớn căn lành và tịnh trừ nghiệp chướng. Mục đích là để cho thân tâm của Phật tử được trong sạch. Ðó là ý nghĩa của hai chữ Bố tát. Thế nhưng, tại sao mỗi nửa tháng chúng ta lại phải tụng hoặc nghe giới? Bởi vì tâm tánh của chúng ta nó dễ buông lung phan duyên theo trần cảnh. Khác nào như con khỉ, con vượn, luôn chuyền nhảy lung tung. Ðã thế, thì thử hỏi làm sao chúng ta có thể tránh khỏi sự gây tạo lỗi lầm?

Giới luật Phật chế, mục đích là để ngăn ngừa những lỗi lầm sái quấy. Nhờ gìn giữ giới luật mà chúng ta mới được tự do, an vui, giải thoát. Giới có công năng lớn lao như thế, nên chúng ta đã lãnh thọ thì cần phải tôn trọng giữ gìn. Nhưng muốn gìn giữ cho có hiệu quả tốt đẹp, thì chúng ta cần phải nghe và học hỏi thường xuyên. Cho nên, Bố tát là cơ hội để nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại những giới luật mà mình đã lãnh thọ. Vì bản tánh của chúng ta hay dễ quên lắm.

Do đó mỗi nửa tháng chúng ta cần phải tụng hoặc nghe giới một lần. Tuy nhiên, nếu vì hoàn cảnh bệnh tật hay vì một lý do đặc biệt quan trọng nào khác, mà Phật tử không thể đến chùa sám hối làm lễ Bố tát được, thì Phật tử cũng có thể gởi dục, nghĩa là nhờ một vị khác đồng giới thay Phật tử để bạch trình cho đại chúng biết. Như thế, cũng là hợp pháp. Còn nếu trong trường hợp Phật tử bị mang tật bệnh dài lâu, cũng như không có phương tiện đến chùa được, thì Phật tử cũng có thể thưa bạch xin phép đại chúng là Phật tử chỉ xin được ở nhà sám hối tụng giới. Ðiều nầy cũng không có gì là sai trái.

Nói tóm lại, ngày lễ Bố tát có những điều lợi ích thực tế sau đây:
Nghe lại những giới luật đã thọ, để khắc ghi sâu đậm mà cẩn thận gìn giữ. Ðồng thời, cũng tăng trưởng thêm hạt giống lành và chuyển hóa thân tâm thanh tịnh an lạc. Nhất là ý thức đến sự vô thường, thời gian trôi qua nhanh chóng, để nỗ lực tiến tu, chóng được giải thoát.
Nếu như trong nửa tháng qua, có phạm giới căn bản hay phạm những lỗi nhỏ, thì người phạm giới phải ra trước giữa đại chúng mà phát lồ tác bạch sám hối. Nhờ đó, mà tội lỗi tiêu mòn và thân tâm trở nên trong sạch.
Nhờ Tam bảo chứng minh gia hộ và nhờ năng lượng gia trì mạnh mẽ của đại chúng, mà mình tăng thêm phước đức và tăng trưởng đạo lực trong sự tinh tấn tu hành ngày càng tốt đẹp hơn.

Ðại khái đó là những điều lợi ích thực tế trong buổi lễ Bố tát vậy.

Kính chúc Phật tử tùy tâm mãn nguyện và thăng tiến mãi trên bưóc đường tu hành tiến đến Phật quả.